Các lĩnh vực nghiên cứu tâm lý chính Đồng tính luyến ái và tâm lý học

Các lĩnh vực nghiên cứu tâm lý trong đồng tính luyến ái được chia làm 5 phạm vi:[18]

  1. Điều gì đã khiến nhiều người bị thu hút với người cùng giới tính?
  2. Điều gì đã dẫn đến sự phân biệt đối xử với những người có xu hướng tính dục đồng tính và sức ảnh hưởng của nó như thế nào?[19]
  3. Đồng tính luyến ái có gây ảnh hưởng tới sức khỏe, chức năng tâm lý hay tình trạng khỏe mạnh chung không?
  4. Điều gì quyết định khả năng thích nghi được với môi trường xã hội không chấp nhận họ? Tại sao đồng tính luyến ái lại là trọng tâm trong bản dạng ở một số người, nhưng lại thứ yếu đối với bản dạng của một số người khác?[20]
  5. Con cái của người đồng tính sẽ lớn lên như thế nào?

Nghiên cứu tâm lý trong các lĩnh vực trên luôn quan trọng trong việc chống lại các thái độ và hành vi định kiến và với các phong trào ủng hộ quyền cho người đồng tính nói chung.[18]

Nguyên nhân của đồng tính luyến ái

 Mặc dù chưa một giả thuyết về nguyên nhân của các xu hướng tính dục nào được ủng hộ rộng rãi, song các nhà khoa học vẫn ủng hộ các giả thuyết dựa trên yếu tố sinh học.[21] Có một lượng lớn bằng chứng ủng hộ các tác nhân phi xã hội và sinh học hơn các tác nhân xã hội, đặc biệt là với nam giới.[22][23][24]

Sự phân biệt đối xử

Các thái độ và hành vi chống đồng tính (thường được gọi là ghét sợ đồng tính hay tư tưởng thượng tôn dị tính) đã trở thành những đối tượng của nghiên cứu tâm lý. Những nghiên cứu này thường tập trung vào thái độ kì thị đối với người đồng tính nam hơn là với người đồng tính nữ.[18] Thái độ chống đồng tính thường xuất hiện ở những người không biết cá nhân người đồng tính đó là ai. Cũng có nguy cơ cao xuất hiện thành kiến chống đồng tính trong quá trình trị liệu tâm lý với các khách hàng là người đồng tính và song tính.[25] Một nghiên cứu cho thấy gần một nửa số đối tượng nghiên cứu là nạn nhân của bạo hành bằng lời nói hay thể chất chỉ bởi vì xu hướng tính dục của họ, và thường kẻ bạo hành là nam giới. Việc trở thành nạn nhân như vậy có liên quan tới mức độ trầm cảm, lo âu, tức giận và các triệu chứng căng thẳng hậu chấn tâm lý cao.[26] Nghiên cứu còn chỉ ra rằng những cha mẹ có phản hồi tiêu cực đối với xu hướng tính dục của con thường có lòng tự tôn thấp và có thái độ không tốt đối với phụ nữ, và rằng “những cảm xúc tiêu cực về đồng tính luyến ái ở các bậc phụ huynh giảm đi khi họ nhận thức của họ về xu hướng tính dục đồng tính luyến ái của con một khoảng thời gian lâu hơn".[27]

Nghiên cứu cho thấy rằng những bậc cha mẹ phản ứng tiêu cực với xu hướng tình dục của con mình có xu hướng có lòng tự trọng thấp hơn và có thái độ tiêu cực đối với phụ nữ, và rằng "cảm giác tiêu cực về đồng tính ở cha mẹ càng giảm đi khi họ nhận thức được đồng tính của con mình lâu hơn".[28]

Ngoài ra, trong khi nghiên cứu cho rằng "các gia đình chú trọng nhiều đến các giá trị truyền thống - ngụ ý tầm quan trọng của tôn giáo, chú trọng đến hôn nhân và sinh con - ít chấp nhận đồng tính hơn các gia đình có truyền thống thấp",[29] một nghiên cứu khác nổi lên chứng minh điều này có thể không luôn luôn đúng. Lấy ví dụ, nghiên cứu gần đây[khi nào?] được phát hành trong tạp chí Tâm lý học Tôn giáo và Tâm linh của APA, biên soạn bởi Chana Etengoff và Colette Daiute, cho rằng các thành viên theo đạo trong gia đình vẫn có thể lựa chọn sử dụng các giá trị và đoạn trích tôn giáo để ủng hộ những người thân thuộc nhóm tính dục thiểu số. Ví dụ, một bà mẹ theo đạo Công giáo có con trai đồng tính chia sẻ rằng bà chỉ chú trọng “Trên tất cả, tình yêu thương là lời răn dạy vĩ đại nhất”. Cũng tương tự với một bà mẹ theo Giám lý (Methodist) đã nhắc đến chúa Jesus khi bày tỏ tình yêu thương với cậu con trai đồng tính của mình, bà ấy nói, “Tôi nghe theo lời dặn về tình yêu và sự tha thứ của chúa Jesus và rằng chúng ta là chiến hữu, rằng tôi không cảm thấy mọi người xứng đáng bị lên án vì những gì họ đã làm.” Những giá trị tôn giáo này cũng được truyền đi bởi một ông bố đạo Mặc Môn (Mormon), người đã chia sẻ những điều sau đây trong suốt buổi thảo luận về điều cấm đồng tính luyến ái trong Kinh thánh: “Mục tiêu, mục đích tồn tại của các bạn cần phải được chấp nhận và được yêu thương và được nâng đỡ … những người đang trong hoàn cảnh khó khăn, bất kể họ là ai”[19]

Các vấn đề về sức khỏe tâm thần

Nghiên cứu tâm lý ở lĩnh vực này bao gồm kiểm tra các vấn đề sức khỏe tâm thần (gồm căng thẳng, trầm cảm hay các hành vi mắc nghiện) đối với người đồng tính nam và đồng tính nữ sau những khó khăn mà họ gặp phải do xu hướng tính dục, vấn đề về ngoại hình, rối loạn ăn uống hay có các hành vi không điển hình về giới (gender atypical behavior).

  • Rối loạn tâm thần: Theo một nghiên cứu ở Hà Lan, người đồng tính nam được ghi nhận có tỉ lệ rối loạn tâm trạnglo âu cao hơn so với người nam thẳng, và người đồng tính nữ có nguy cơ mắc trầm cảm (nhưng không phải các rối loạn tâm trạng và lo âu khác) cao hơn so với người nữ thẳng.[18] Một bài báo nghiên cứu từ Tạp chí Tâm lý học Cộng đồng Hoa Kỳ cho biết rằng những cá nhân phải đối mặt với nhiều hình thức áp bức có xu hướng cảm thấy khó khăn hơn trong việc quản lý. Trong nghiên cứu này, người ta lưu ý rằng những người LGBTQ + bị khuyết tật cho biết họ phải đấu tranh nhiều hơn với tình trạng bị áp bức của họ.[30]
  • Rối loạn ám ảnh ngoại hình và rối loạn ăn uống: người đồng tính nam có xu hướng quan tâm đến ngoại hình của bản thân hơn người nam thẳng.[31]  Người đồng tính nữ ít có nguy cơ mắc rối loạn ăn uống hơn người dị tính nữ.[32]
  • Hành vi không điển hình về giới: Tuy đây không phải là một dạng rối loạn, nhưng những người đồng tính nam có thể phải đối mặt với nhiều khó khăn do họ thường thể hiện hành vi không điển hình về giới (ngoài khuôn mẫu giới) hơn so với người dị tính nam.[33] Sự khác biệt trên giữa người đồng tính và dị tính nữ là không mấy rõ ràng.[34]
  • Căng thẳng của nhóm người thiểu số: Căng thẳng do bị kì thị tính dục, được biểu hiện dưới hình thức định kiến và phân biệt đối xử, là loại căng thẳng chủ yếu của người đồng tính. Các hội nhóm ủng hộ người thuộc tính dục thiểu số và các nhóm dành cho LGBTQ+ giúp chống lại và làm giảm sự căng thẳng của nhóm người thiểu số.[6]
  • Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã: mâu thuẫn giữa bản sắc tôn giáo và xu hướng tính dục có thể gây ra căng thẳng nghiêm trọng, làm nhiều người muốn thay đổi xu hướng tính dục của họ. Sự khám phá bản dạng xu hướng tính dục có thể giúp các cá nhân xem xét lí do đằng sau mong muốn thay đổi và giúp họ giải quyết sự mâu thuẫn đó thông qua quá trình tái định hướng bản dạng xu hướng tính dục hoặc các liệu pháp chấp nhận.[6] Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã là một dạng rối loạn khi mà một người mong ước xu hướng tính dục của bản thân khác đi vì các rối loạn tâm lý và hành vi có liên quan.
  • Rối loạn mối quan hệ tình dục: Người đồng tính khi tham gia vào những cuộc hôn nhân có sự xuất hiện của các xu hướng tính dục khác nhau (mixed-orientation marriages) có thể gặp phải tình trạng lo lắng về một cuộc hôn nhân tan vỡ.[6] Đây là dạng rối loạn khi mà bản dạng giới và xu hướng tính dục là rào cản trong việc hình thành và duy trì một mối quan hệ.

Hành vi tự sát

Khả năng có ý định tự sát ở cả người đồng tính nam và nữ, người song tính ở cả hai giới tính là cao hơn so với những người dị tính.[35][36][37] Xu hướng tỉ lệ tự sát cao ở người nữ bao gồm cả người đồng tính nữ và song tính nữ; người đồng tính nữ có khả năng thực hiện hành vi tự sát cao hơn so với người đồng tính hay song tính nam.[38]

Các nghiên cứu tranh cãi về sự chênh lệch chính xác trong tỉ lệ tự sát so với người dị tính, với tối thiểu 0,8-1.1 lần ở nữ[39] và 1.5-2.5 lần ở nam.[40][41] Các con số cao hơn đạt mức 4.6 lần ở nữ[42] và 14.6 lần ở nam.[18]

Chủng tộc và tuổi tác là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tỷ lệ nam cao nhất được quy cho những người da trắng trẻ tuổi. Đến tuổi 25, nguy cơ mắc bệnh của họ giảm hơn một nửa; tuy nhiên, nguy cơ đối với nam đồng tính da đen ở độ tuổi đó tăng đều đặn lên 8,6 lần. Trong suốt cuộc đời, khả năng gia tăng là 5,7 lần đối với người da trắng và 12,8 lần đối với nam giới đồng tính và lưỡng tính da đen. Nữ đồng tính và song tính có xu hướng ngược lại, với ít nỗ lực hơn trong những năm thiếu niên so với nữ dị tính. Trong suốt cuộc đời, khả năng xảy ra đối với phụ nữ Da trắng gần gấp ba lần so với những người khác giới của họ; tuy nhiên, đối với phụ nữ da đen có sự thay đổi tối thiểu (chênh lệch ít hơn 0,1 đến 0,3), với phụ nữ da đen dị tính có nguy cơ cao hơn một chút trong hầu hết các nghiên cứu dựa trên độ tuổi.[18]

Người trẻ đồng tính nam và đồng tính nữ mà đã từng nỗ lực tự sát không thành phải chịu rất nhiều thái độ chống đồng tính, thường có ít kỹ năng hơn để đối phó với sự phân biệt đối xử, cô lập và cô đơn.[18][43][44] Họ cũng thường bị gia đình khước từ nhiều hơn[45] so với những người không có nỗ lực tự sát. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng người trẻ đồng tính nam và song tính mà từng nỗ lực tự sát không thành có vai trò giới nữ tính hơn,[46] họ thấy mình thuộc một bản dạng phi dị tính từ sớm, và có nhiều khả năng rơi vào lạm dụng tình dục, lạm dục chất kích thích và bị bắt giam vì những hành vi ứng xử xấu hơn là những người đồng trang lứa. [46] Một nghiên cứu tìm thấy rằng hoạt động tình dục đồng giới, nhưng không phải hấp dẫn đồng tính hay bản dạng đồng tính, là một dấu chỉ đáng kể cho việc tự sát của thanh thiếu niên ở Na Uy.[47]

Các chính sách của chính phủ đã được tìm thấy để làm trung gian cho mối quan hệ này bằng cách lập pháp hóa sự kỳ thị về cơ cấu. Một nghiên cứu sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia từ năm 1991-2017 đối với 36 quốc gia OECD cho thấy hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới có liên quan đến việc giảm 1.191 trường hợp tử vong ở thanh niên trên 100.000 thanh niên, với tác động rõ rệt hơn đối với nam thanh niên so với nữ thanh niên.[48] Một nghiên cứu khác về dữ liệu toàn quốc trên khắp Hoa Kỳ từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 12 năm 2015 cho thấy hôn nhân đồng giới có liên quan đến việc giảm đáng kể tỷ lệ cố gắng tự tử ở trẻ em, với tác động tập trung ở trẻ em thuộc xu hướng tính dục thiểu số, dẫn đến việc ít hơn 134.000 trẻ em có ý định tự tử mỗi năm ở Hoa Kỳ.[49]

Sự phát triển bản dạng xu hướng tính dục

  • Công khai: Nhiều người đồng tính nam, đồng tính nữ và song tính trải qua việc công khai ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời. Các nhà tâm lý học thường nói rằng quá trình này bao gồm vài giai đoạn “mà ở đó có ý thức rằng mình khác những người đồng trang lứa (‘sự nhạy cảm hóa’) và họ bắt đầu nghi hoặc về bản dạng tính dục của mình (‘hoang mang về bản dạng’). Chính vì thế, họ bắt đầu khám phá một cách thiết thực lựa chọn là đồng tính nam, đồng tính nữ hay song tính và học cách đối phó với sự đàm tiếu (‘chấp nhận bản dạng’). Ở giai đoạn cuối cùng, họ hợp nhất những ham muốn tình dục của mình thành một sự thấu hiểu tích cực về bản thân (‘sự cam kết’’).[18] Tuy nhiên không phải lúc nào đây cũng là một quá trình tuyến tính,[50] và nó có thể khác nhau với mỗi cá nhân đồng tính nam, đồng tính nữ hay song tính.[51]
  • Mức độ công khai khác nhau: một nghiên cứu tìm thấy rằng đàn ông đồng tính hay công khai với bạn bè và anh chị em ruột hơn là đồng nghiệp, cha mẹ và họ hàng xa hơn.[52]
  • Công khai và sự khỏe mạnh: những cặp đồng giới công khai thường hạnh phúc hơn trong mối quan hệ.[53] Với những phụ nữ tự thấy mình là người đồng tính, xu hướng tính dục của mình càng được nhiều người biết thì cô ấy càng ít lo âu hơn, có nhiều cảm xúc tích cực và sự tự tôn hơn.[54]
  • Phủ nhận bản dạng đồng tính: nhiều nghiên cứu báo cáo rằng đối với một số người theo đạo, phủ nhận bản dạng đồng tính dường như làm giảm đi sự căng thẳng gây ra bởi mâu thuẫn giữa những giá trị tôn giáo và xu hướng tính dục.[6][55][56][57][58] Sau khi xem xét nghiên cứu, chủ tịch lực lượng đặc nhiệm về tính dục của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ Judith Glassgold nói rằng một số người hài lòng với việc chối bỏ bản dạng đồng tính và “không có bằng chứng rõ ràng về mối nguy hại của việc này”.[59]

Tính linh hoạt của khuynh hướng tình dục

Thông thường xu hướng tính dục và bản dạng xu hướng tính dục không được phân biệt với nhau, điều này có thể ảnh hưởng tới việc đánh giá chính xác bản dạng tính dục và liệu xu hướng tính dục có thay đổi hay không; bản dạng xu hướng tính dục có thể thay đổi trong suốt cuộc đời và có thể/có thể không tương hợp với với giới tính sinh học, hành vi tình dục hay xu hướng tính dục thực sự.[60][61][62] Đối với phần lớn mọi người thì xu hướng tính dục ổn định  và ít có khả năng thay đổi, nhưng một vài nghiên cứu chỉ ra rằng một số người có thể trải qua những thay đổi trong xu hướng tính dục, và điều này dễ xảy ra ở phụ nữ hơn là đàn ông.[63] Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ phân biệt xu hướng tính dục là sự hấp dẫn bẩm sinh còn bản dạng xu hướng tính dục thì có thể thay đổi ở bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời.[64]

Trong một tuyên bố được đưa ra cùng với các tổ chức y khoa lớn khác của Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ đã khẳng định rằng “những người khác nhau nhận ra  mình là người dị tính luyến ái, đồng tính nam, đồng tính nữ hay song tính luyến ái tại những thời điểm khác nhau trong cuộc đời.” [65] Một báo cáo vào năm 2007 từ Trung tâm Nghiện và Sức khỏe tâm thần (Centre for Addiction and Mental Health) viết “Với một số người, xu hướng tính dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời. Với những người khác, xu hướng tính dục linh hoạt  và thay đổi theo thời gian”.[66] Nghiên cứu “Song tính luyến ái ở nữ từ thanh thiếu niên đến trưởng thành” của Lisa Diamond gợi ý rằng có “sự linh hoạt  đáng kể trong sự hấp dẫn, hành vi và bản dạng của những phụ nữ đồng tính, song tính và không dán nhãn”.

[67][68]

Nuôi dạy con cái

Nuôi dạy con cái của cộng đồng LGBT là việc làm cha mẹ của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tínhchuyển giới (LGBT), với vai trò là cha mẹ ruột hoặc cha mẹ nuôi. Đàn ông đồng tính có những lựa chọn như “nhận chăm sóc, các kiểu nhận con nuôi trong nước hay ngoài nước khác nhau, các hình thức mang thai hộ đa dạng (cả ‘truyền thống’ và theo phương pháp thụ tinh ống nghiệm) và sắp xếp với họ hàng, trong đó họ có thể cùng nuôi dạy con cái với một hay nhiều người phụ nữ mà họ có mối quan hệ mật thiết nhưng không có yếu tố tình dục”. .[69][70][71][72][73] Cha mẹ LGBT cũng có thể là cha mẹ đơn thân, và tuy ít hơn nhưng thuật ngữ này đôi khi cũng được dùng để nhắc đến cha mẹ có con thuộc cộng đồng LGBT.

Trong điều tra dân số năm 2000 của Hoa Kỳ, 33% các hộ là cặp đồng giới nữ và 22% các hộ là cặp đồng giới nam báo cáo rằng có ít nhất một đứa trẻ dưới mười tám tuổi sống trong nhà họ.[74] Một vài đứa trẻ không biết là cha mẹ chúng thuộc cộng đồng LGBT; vấn đề công khai thì khác nhau và một vài cha mẹ có thể không bao giờ công khai với con của họ.[75][76] Nhìn chung việc nhận con nuôi bởi các cặp thuộc cộng đồng LGBTnuôi dạy con cái của cộng đồng LGBT là một việc gây tranh cãi ở một số quốc gia. Tháng 1 năm 2008, Tòa án Nhân quyền châu Âu tuyên bố rằng các cặp đồng giới có quyền nhận con nuôi.[77][78] Ở Hoa Kỳ, những người thuộc cộng đồng LGBT có thể nhận con nuôi hợp pháp dưới danh nghĩa cá nhân ở cả 50 bang.[79]

Mặc dù ý kiến cho rằng những cặp dị tính vốn làm cha mẹ tốt hơn những cặp đồng giới, hay trẻ con được nuôi dạy bởi cha mẹ đồng tính nam hay đồng tính nữ sẽ gặp khó khăn hơn trẻ con được nuôi dạy bởi cha mẹ dị tính thường được đưa ra trong các cuộc phản biện chính sách, những ý kiến đấy không được chứng minh bởi nghiên cứu khoa học. [80] Có rất nhiều bằng chứng cho việc trẻ con nuôi dạy bởi cha mẹ đồng giới phát triển tốt không khác nào những đứa trẻ được nuôi dạy bởi cha mẹ dị tính. Nhiều nghiên cứu ghi nhận rằng thiếu sự tương quan giữa xu hướng tính dục của cha mẹ và bất kỳ thước đo sự điều chỉnh tâm trạng, tâm lý xã hội hay hành vi của một đứa trẻ. Những dữ liệu này đã thể hiện rằng không có rủi ro nào đối với một đứa trẻ lớn lên trong một gia đình với một hay nhiều hơn cha mẹ đồng tính.[81] Không nghiên cứu nào ủng hộ quan điểm mà nhiều người tin vào rằng giới của cha mẹ có ảnh hưởng tới sức khỏe, sự hạnh phúc của đứa trẻ.[82] Nếu cha mẹ đồng tính nam, đồng tính nữ hay song tính vốn ít năng lực làm cha mẹ so với những cha mẹ dị tính tương đồng thì những đứa trẻ của họ sẽ thể hiện tồi hơn bất kể kiểu mẫu nghiên cứu; tuy nhiên điều này không được ghi nhận.[83]

Giáo sư Judith Stacey thuộc Đại học New York khẳng định: “Hiếm khi nào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội có được sự đồng thuận cao như đối với việc nuôi dạy con cái của cộng đồng LGBT. Chính vì thế, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ và tất cả các tổ chức lớn chuyên môn trong lĩnh vực phúc lợi trẻ em đã phát hành các báo cáo và nghị quyết ủng hộ quyền cha mẹ của người đồng tính nam và đồng tính nữ”.[84] Những tổ chức này bao gồm Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics),[81] Học viện Tâm thần học trẻ em và thanh thiếu niên (American Academy of Child and Adolescent Psychiatry),[85] Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Association),[86] Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association),[87] Hiệp hội Phân tâm học Hoa Kỳ (American Psychoanalytic Association),[88] Hiệp hội quốc gia những người làm công tác xã hội (National Association of Social Workers), Liên minh Phúc lợi trẻ em Hoa Kỳ (Child Welfare League of America),[89] Ủy ban về trẻ em được nhận nuôi Bắc Mỹ (North American Council on Adoptable Children),[90]Hiệp hội Tâm lý học Canada (Canadian Psychological Association) (CPA). CPA quan ngại rằng một số cá nhân và tổ chức đang cố tình hiểu sai những phát hiện trong nghiên cứu tâm lý để củng cố quan điểm của bản thân, trong khi quan điểm của họ chính xác hơn là đang dựa vào những hệ tín ngưỡng và giá trị khác.[91]

Phần lớn gia đình ở Hoa Kỳ ngày nay không còn là “gia đình trung lưu với một người bố đi làm kiếm tiền và một người mẹ ở nhà, cưới nhau về và nuôi dạy con ruột của họ”, việc từng được coi là một tiêu chuẩn. Kể từ cuối những năm 1980, việc trẻ con và thanh thiếu niên có thể thích nghi tốt trong môi trường phi truyền thống như với môi trường truyền thống đã được công nhận rộng rãi.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đồng tính luyến ái và tâm lý học http://www.psychology.org.au/Assets/Files/LGBT-Fam... http://www.cpa.ca/cpasite/userfiles/Documents/Marr... http://www.cpa.ca/cpasite/userfiles/Documents/advo... //citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/summary?doi=10.1.1... http://psychology.ucdavis.edu/rainbow/html/AP_06_p... http://psychology.ucdavis.edu/rainbow/html/resolut... //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/10596508 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/11499118 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/12567166 //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/12653422